Núi Linh Thứu nằm ở vùng Rajgir, thuộc bang Bihar , Ấn Độ, cách Bồ Đề Đạo Tràng 70 km và cách Đại học Na Lan Đà 11 km về hướng Tây Nam. Đây là một trong những thánh tích quan trọng của Phật giáo.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, núi Linh Thứu là một trong những ngọn núi cao, bao bọc xung quanh thành Vương Xá. Với vị trí thuận lợi cho việc tu tập, và cũng thuận lợi cho việc khất thực của chư tăng, nên Đức Phật đã chọn đây làm nơi để tăng đoàn cư trú và tu tập. Nơi Đức Phật Thích Ca đã an trú khoảng 7 năm. Tại đỉnh núi này, Đức Phật đã thuyết giảng nhiều bộ kinh quan trọng trong Phật giáo, như là Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Đại Bát Nhã…
Lúc bấy giờ, thành Vương Xá thuộc nước Ma Kiệt Đà, do vua Tần Bà Sa La trị vì. Vua Tần Bà Sa La là một vị minh quân, hỗ trợ đắc lực cho Đức Phật và Tăng đoàn trong công cuộc hoằng pháp, và cũng là một người đệ tử tại gia rất mộ đạo. Để có thể thân cận học hỏi giáo pháp với Đức Phật, vua Tần Bà Sa La đã đặc biệt cho xây một con đường bậc cấp từ dưới chân núi lên thẳng đến nơi Đức Phật thuyết pháp trên đỉnh núi. Ngày nay, trên đường đi lên đỉnh núi Linh Thứu, giữa lưng chừng triền núi có một tấm bảng ghi lại sự kiện vua Tần Bà Sa La xuống kiệu, đi bộ lên đỉnh núi để đỉnh lễ Đức Phật, và có một tấm bảng khác, đánh dấu chỗ vua Tần Bà Sa La bỏ lại đoàn tùy tùng, một mình tiến vào đỉnh lễ Đức Phật.
Núi Linh Thứu, theo tiếng Pali là Gridhrakuta, có nghĩa là ngọn núi kền kền, vì trên đỉnh núi có tảng đá, hình dạng giống như đầu con chim thứu, còn gọi là chim kền kền, một loài chim rất phổ biến ở Ấn Độ. Từ trên đỉnh núi này, mọi người có thể ngắm nhìn toàn cảnh thành Vương Xá, những rặng núi chạy dài bao bọc xung quanh, các đồng ruộng mênh mông bát ngát, các làng mạc và những phố xá nằm rải rác quanh đồi núi.
Hiện tại, trên đỉnh núi Linh Thứu có một nền bằng gạch, đây chính là di tích còn lại của hương thất Đức Phật năm xưa. Ở sườn núi phía Nam của hương thất có một động đá lớn, đây được cho là nơi Đức Phật thường tham thiền nhập định. Phía đông của hương thất có tảng đá dài, là nơi Đức Phật đi kinh hành. Kế bên hương thất còn có một khối đá rất lớn, khối đá này được cho là khối đá mà Tỳ khiêu Đề Bà Đạt Đa đã xô từ trên đỉnh núi xuống để hại đức Phật. Phía Đông Bắc của hương thất có một dòng suối, ngày nay dòng suối này đã khô cạn, nhưng theo sử liệu thì đây là một con suối có nước trong và mát. Vào mùa hạ, Đức Phật thường tắm, giặt tại con suối này.
Nơi Đức Phật ở được gọi là “hương thất”, đây là một từ dùng để xưng tán công đức, giới hạnh của Đức Phật. Đức hạnh của Đức Phật được ví như đóa hoa tỏa hương thơm ngát, bay khắp muôn phương, khiến cho mọi người ngưỡng mộ và tôn kính. Cho nên mới có câu thơ rằng:
“Hương thơm hoa quý thua xa
Hương người đức hạnh chan hòa vượt trên
Xông lên mãi tận chư thiên
Tỏa ra ngan ngát khắp miền trời cao”.
Dọc theo lối bậc cấp dẫn lên đỉnh núi, hiện có nhiều hang đá nhỏ, là nơi tu hành của các vị Tỳ khiêu dưới thời Phật tại thế. Trong đó hiện có hang động của ngài Xá Lợi Phất, hang động của ngài A Nan.
Theo kinh điển của Phật giáo, ngay trên đỉnh núi Linh Thứu này, trong một thời pháp quan trọng, khi đại chúng đang cung kính và lắng lòng nghe pháp thì Đức Phật im lặng không nói một lời, Ngài chỉ cầm cành hoa để khai thị đại chúng, mọi người đều cảm thấy ngơ ngác, chỉ có ngài Đại Ca Diếp cảm nhận được thâm ý của Phật, nên ngài liền nở nụ cười trên môi. Đây chính là sự tích “Niêm hoa vi tiếu” trong nhà thiền. Niêm hoa vi tiếu, nói đầy đủ là “Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu”, nghĩa là: Đức Phật Thích Ca cầm hoa đưa lên, Ngài Ca Diếp mỉm cười. Nhân đó, Đức Phật xác chứng sự thâm ngộ của ngài Ca Diếp và chính thức tuyên bố ngài Ca Diếp sẽ là người thay thế Đức Phật truyền bá Chính pháp sau khi Đức Phật nhập niết bàn. Và cũng từ sự kiện này, về sau, ngài Ca Diếp đã chính thức trở thành vị Sơ tổ của Thiền tông Ấn Hoa.
Năm xưa, lúc ngài Pháp Hiển đến Ấn Độ để cầu pháp cũng đã từng đến chiêm bái tại đỉnh núi Linh Thứu, và cũng đã ghi lại chuyến hành hương chiêm bái đến núi Linh Thứu của mình trong Phật Quốc Ký. Rồi đến ngài Huyền Trang, khi đến Ấn Độ cầu pháp cũng lại đến chiêm bái thánh tích núi Linh Thứu và ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký.
Trong dãy núi Rajgir có ngọn núi Sonagiri, nằm bên phải núi Linh Thứu. Trên đỉnh núi Sonagiri có một ngôi bảo tháp cao màu trắng, được gọi là tháp Hòa Bình Thế Giới, do Hòa thượng Nichidatshu Fuji, thuộc tông Thiên Thai, Nhật Bản, xây dựng vào năm 1969. Đây là một trong nhiều ngôi tháp Hòa Bình Thế Giới được Hòa thượng Nichidatshu xây dựng trên đất Phật, cũng như tại nhiều quốc gia khác trên thế giới. Hòa thượng Nichidatshu đã được truyền cảm hứng rất nhiều từ cuộc gặp với ngài Mahatma Gandhi vào năm 1931, và Hòa thượng đã quyết định cống hiến cả cuộc đời mình cho việc thúc đẩy và truyền bá tinh thần bất bạo động. Kể từ sau sự kiện hai quả bom nguyên tử ném xuống hai thành phố lớn: Hiroshima và Nagashaki, Nhật Bản vào tháng 8 năm 1945, Hòa thượng Nichidatshu bắt đầu nảy sinh ý tưởng xây dựng các ngôi tháp ở nhiều nơi trên thế giới để cầu nguyện cho hòa bình của thế giới, và cầu nguyện sự bình an đến cho tất cả mọi người trên thế giới. Ngôi tháp Hòa Bình Thế Giới đầu tiên được Hòa thượng Nichidatshu xây dựng vào năm 1947 tại thành phố Kumamoto, Nhật Bản, và hoàn thành vào năm 1954. Tính đến nay, có 80 ngôi tháo Hòa bình Thế giới đã được xây dựng tại nhiều quốc gia khác nhau ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, và châu Úc. Tất cả các ngôi tháp này đều có kiểu dáng kiến trúc tương tự nhau, với thân tháp có cấu trúc hình tròn, và chóp nhọn ở đỉnh tháp. Bốn mặt ngôi tháp phân đều theo bốn hướng, tôn trí 4 bức tượng Phật màu vàng, gắn liền với bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đời của Đức Phật, đó là: Đản sanh, Thành đạo, Chuyển pháp luân và nhập Niết bàn.
Sau khi Đức Phật nhập niết-bàn, núi Linh Thứu đã được Ngài Ca Diếp và chư vị thánh tăng chọn làm nơi kết tập kinh điển lần đầu tiên, với sự hỗ trợ đắc lực của vua A Xà Thế, con trai của vua Tần Bà Sa La.
Hiện nay, núi Linh Thứu đã trở thành một điểm hành hương quan trọng của tín đồ Phật giáo ở khắp nơi trên thế giới, trong đó có cả người Việt. Chính quyền Ấn Độ và các tổ chức Phật giáo Quốc Tế cũng đang dầu tư kinh phí, công sức vào việc bảo tồn và phát triển khu thánh tích này.
Hoàng Minh Phú biên soạn